Đăng ngày:
Tháng 3/1975, giữa núi rừng Tây Nguyên hùng vĩ, một ván cờ sinh tử đã diễn ra. Đó không chỉ là một trận chiến thông thường, mà là cuộc đấu trí đầy kịch tính giữa những bộ óc quân sự lỗi lạc của Quân đội nhân dân Việt Nam, Quân giải phóng miền Nam Việt Nam tiêu biểu là tướng Hoàng Minh Thảo - Tư lệnh Chiến dịch Tây Nguyên. Đối đầu với tướng Hoàng Minh Thảo là tướng Phạm Văn Phú - Tư lệnh Quân đoàn II Việt Nam Cộng hòa , với thử thách lớn nhất trong sự nghiệp: giữ vững Tây Nguyên trước một đối thủ quá đỗi khó lường. Tướng Hoàng Minh Thảo - Tư lệnh Chiến dịch Tây Nguyên đối đầu tướng Phạm Văn Phú - Tư lệnh Quân đoàn II Việt Nam Cộng hòa Thực hiện quyết tâm của Bộ Chính trị về giải phóng miền Nam trong năm 1975, Bộ Chính trị, trực tiếp là Quân ủy Trung ương đã quyết định mở Chiến dịch Tây Nguyên , nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, giải phóng các tỉnh Đắk Lắk, Phú Bổn, Quảng Đức, thực hiện chia cắt và tạo thế chiến lược mới trên chiến trường toàn miền Nam. Bộ Tư lệnh Chiến dịch Tây Nguyên do Trung tướng Hoàng Minh Thảo làm Tư lệnh, Đại tá Đặng Vũ Hiệp làm Chính ủy. Bộ phận đại diện của Quân ủy và Bộ tổng Tư lệnh do Đại tướng Văn Tiến Dũng chủ trì được đặt tại Tây Nguyên để trực tiếp chỉ đạo chiến dịch. Thời điểm Hoàng Minh Thảo nhận chức Tư lệnh chiến dịch, Bộ Thống soái tối cao đã quyết định chọn mục tiêu chủ yếu trong Chiến dịch Tây Nguyên là Buôn Ma Thuột song thực ra để đi đến quyết định này, Tổng hành dinh đã tham khảo ý kiến nhiều tướng lĩnh, trong đó có ông. Trong Hồi ký "Chiến đấu ở Tây Nguyên" Tướng Hoàng Minh Thảo kể: "Về vấn đề này, năm 1973 trong một dịp gặp Đại tướng Võ Nguyên Giáp tôi đã có đề xuất, vì đánh Kon Tum thì không phát triển được, đánh Pleiku thì địch còn mạnh, chỉ Buôn Ma Thuột là địch yếu và sơ hở phòng bị". Nằm ở trung tâm Nam Tây Nguyên, Buôn Ma Thuột có khoảng cách khá đều tới Bắc Tây Nguyên, đồng bằng Nam Trung Bộ và miền Đông Nam Bộ, là nơi giao nhau của mấy con đường. Bộ đội hành quân diệt địch trong chiến dịch Tây Nguyên. Tây Nguyên có vị trí chiến lược quan trọng, nhưng điểm yếu cốt tử là nhiều núi cao hiểm trở, hệ thống giao thông kém phát triển, địch cơ động lực lượng chủ yếu dựa vào một số trục đường chính . Khi các trục đường này bị cắt và “khóa chặt” thì Tây Nguyên bị cô lập, tách rời khỏi vùng đồng bằng Nam Trung Bộ và cả chiến trường miền Nam, duy nhất còn lại đường không để địch chi viện, ứng cứu. Trong khi đó, ta hoàn toàn có đủ khả năng và điều kiện phát huy sở trường triển khai thế trận vận động tiến công tiêu diệt từng bộ phận lực lượng quân địch. Nếu ta làm chủ được Tây Nguyên sẽ khống chế được một vùng rộng lớn, bao gồm đồng bằng ven biển Nam Trung Bộ, Hạ Lào và Đông Bắc Campuchia, tạo được thế đứng chân vững chắc để phát triển thế tiến công xuống Sài Gòn-Gia Định; phát triển xuống các tỉnh ven biển miền Trung. Việc lựa chọn hướng mở đầu vào Tây Nguyên còn thuận lợi cho ta triển khai thế tiến công chiến lược. Video: Vì sao Tây Nguyên được chọn là chiến trường quyết định trong mùa Xuân 1975? Sau thắng lợi giải phóng tỉnh Phước Long, Bộ Chính trị và Thường vụ Quân ủy Trung ương quyết định chọn hướng tiến công chính là Nam Tây Nguyên, mục tiêu chủ yếu, trận mở đầu là đánh và giải phóng Buôn Ma Thuột. Chọn Nam Tây Nguyên và Buôn Ma Thuột làm hướng và mục tiêu tiến công chủ yếu, đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc của Đảng ta về nghệ thuật chỉ đạo chiến lược, chiến dịch trong chiến tranh. Cùng với đó, việc xây dựng lực lượng, chuẩn bị chiến trường được tiến hành khẩn trương. Tháng 6/1974, Đảng ủy Bộ Tư lệnh Chiến dịch Tây Nguyên ra Nghị quyết xây dựng khối chủ lực Tây Nguyên thành binh đoàn chiến dịch, có khả năng tác chiến hiệp đồng binh chủng, có sức cơ động cao. Về lực lượng, thành lập trung đoàn pháo binh ở các sư đoàn; lực lượng pháo binh của mặt trận được tổ chức thành 2 trung đoàn hoàn chỉnh; lực lượng phòng không được tổ chức lại thành 2 trung đoàn ; thành lập Trung đoàn Đặc công 198, Trung đoàn Xe tăng 273 và Trung đoàn Thông tin 29. Đồng thời, đẩy mạnh xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân, đặc biệt là thành lập một số quân đoàn chủ lực. Về hậu cần, kỹ thuật, được tổ chức theo hướng bảo đảm khả năng tác chiến tập trung quy mô lớn, có sức cơ động cao, dưới sự chỉ đạo của Bộ Tổng Tham mưu. Trong cuốn “Chiến dịch Tây Nguyên đại thắng” do NXB Quân đội n\Nhân dân xuất bản năm 2004, Thượng tướng Hoàng Minh Thảo nhận định: “Ta ghìm địch ở Bắc Tây Nguyên để phá vỡ địch ở đầu yếu là Nam Tây Nguyên. Đó là một thành công trong nghệ thuật dùng mưu”. Sai lầm chí mạng: Khi tướng Phú chọn con đường chết Trong khi lực lượng của ta khẩn trương chuẩn bị cho Chiến dịch Tây Nguyên thì ở phía bên kia, đầu tháng 11/1974, chính quyền Sài Gòn bổ nhiệm Phạm Văn Phú làm Tư lệnh Quân đoàn II . Tư lệnh Quân đoàn II luôn được mệnh danh là “Tướng Biên Khu”-một nơi khó khăn. Đối với tướng Phú, đây còn là địa bàn lạ lẫm. Tướng Phạm Văn Phú và Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu dự tiệc tại Quân đoàn II - Ảnh: TL Tháng 12/1974, Phú được triệu tập về dinh “Độc lập” dự hội nghị quân sự cấp cao bàn kế hoạch tác chiến trên quy mô “toàn quốc” của năm 1975. Cuộc họp do Nguyễn Văn Thiệu-Tổng thống kiêm Tổng tư lệnh quân lực chủ trì với sự có mặt của Đại tướng Trần Thiện Khiêm-Thủ tướng, Đại tướng Cao Văn Viên-Tổng Tham mưu trưởng, Trung tướng Đặng Văn Quang-Chủ tịch Ủy ban tình báo Quốc gia kiêm Chỉ huy trưởng Trung tâm điều hành Hiệp định Ba lê; bốn viên Tư lệnh Quân đoàn-Quân khu là Ngô Quang Trưởng, Phạm Văn Phú, Dư Quốc Đống và Nguyễn Vĩnh Nghi. Do đã trao đổi kỹ với quan thầy Mỹ và đã có cuộc họp riêng với Khiêm, Viên, Quang, Nguyễn Văn Thiệu khai mạc cuộc họp với những nhận định đầy sáng sủa về “hiện tình đất nước”; tâng bốc kế hoạch do Bộ Tổng tham mưu đệ trình về bố trí lực lượng trên toàn chiến trường theo thế “mạnh ở hai đầu” là hoàn toàn đúng đắn. Tiếp đó, Thiệu đi sâu phân tích tình hình rồi phán đoán: “Trong năm 1975, Bắc Việt chưa đủ sức đánh lớn. Khả năng của họ hiện nay chỉ cho phép đánh lớn hơn năm 1974-tức là nhỏ hơn 1968 và 1972”. Thiệu cũng dự đoán địa bàn tiến công của quân Giải phóng trong năm 1975 sẽ là Quân khu 3. Để tỏ ra dân chủ, Thiệu ngỏ ý muốn biết ý kiến của Phú. Phú e ngại đứng lên: Thử đặt ngược lại vấn đề: Nếu tai họa năm 1972 vẫn tái diễn thì về mặt chiến lược, Cao Nguyên là địa bàn rất quan trọng với đối phương, từ đây có nhiều thế lợi để cơ động phát triển về phía Nam theo đường 14, hoặc xuống phía Đông theo các đường 19, 7 và 21. -Nếu đánh Cao Nguyên, họ sẽ đánh vào đâu?- Thiệu lại hỏi. Chắc chắn họ sẽ đánh Pleiku. Mất Pleiku, Kon Tum thì Buôn Ma Thuột và toàn bộ Cao Nguyên sẽ mất luôn. Thiệu quay lại, đến trước bản đồ bố trí binh hỏa lực, đập tay vào những con số: - Ông có hai sư đoàn bộ binh, nhưng lại có hai sư đoàn không quân với 138 máy bay chiến đấu, có 382 khẩu pháo và 477 xe tăng và thiết giáp…Vả lại muốn chiếm đánh Cao Nguyên, họ phải tính đến chuyện có chọc thủng được “bức tường thép” của tướng Trưởng ở Quân khu 1 hay không chứ? Trước khi trở về bản doanh ở Pleiku, Phú còn được Thiệu nhắc nhở riêng: Ý kiến của tôi là ý kiến của người Mỹ. Người Mỹ cho rằng trong năm tới, giỏi lắm đối phương cũng chỉ gặm được vài thị xã nhỏ như An Lộc, Gia Nghĩa. Họ chưa đủ sức nhai nổi các thị xã lớn như Tây Ninh, Buôn Ma Thuột, Pleiku… Vì tin người Mỹ nên Phú tin lời Thiệu và vì thế về tới Pleiku, tướng Phú tỏ ra chủ quan. Quân giải phóng đánh chiếm Bộ tư lệnh Sư đoàn 23 Thị xã Buôn Ma Thuột, tỉnh lỵ tỉnh Đắk Lắk với 150.000 dân, là nơi địch đặt sở chỉ huy của Sư đoàn 23 Việt Nam Cộng hòa. Đầu tháng 2/1975, dưới sự chỉ huy của Tư lệnh Hoàng Minh Thảo, các đơn vị quân chủ lực của ta tăng cường cho Chiến dịch Tây Nguyên đã đến các vị trí tập kết. Ta tiến hành hoạt động nghi binh ngày càng mạnh ở Bắc Tây Nguyên. Thế nhưng, đến giữa tháng 2, tướng Phạm Văn Phú và thuộc hạ của ông ta vẫn nhận định: “Nếu quân Giải phóng đánh vào Tây Nguyên thì nơi ấy là Pleiku-đại bản doanh của Bộ Tư lệnh Quân đoàn II”. Chúng cho rằng, năm 1975 ta chưa đủ sức; không khắc phục được địa hình, thời tiết và bảo đảm hậu cần để đánh lớn vào các thị xã và thành phố lớn như Buôn Ma Thuột, hoặc ta có đánh thắng cũng không giữ được khi chúng phản kích chiếm lại. Vì thế, Buôn Ma Thuột tuy là một vị trí xung yếu, nhưng địch có nhiều sơ hở và càng vào trong thị xã, lực lượng chúng càng mỏng. Đối với ta, giải phóng được Buôn Ma Thuột thì sẽ đập vỡ được hệ thống phòng ngự của địch ở Tây Nguyên, tạo ra một thế trận hiểm mới, có thể làm thay đổi nhanh chóng cục diện chiến trường. Trong khi đó, từ nhận định của tướng quân đội Việt Nam Cộng hòa Phạm Văn Phú, lực lượng chính yếu của Quân đoàn địch đều được bố trí tập trung ở Pleiku, dù lúc đó cũng có người nhắc tướng Phú hãy chú ý Buôn Ma Thuột. Mũi tiến quân của quân Giải phóng vào thị xã Buôn Ma Thuột . Từ ngày 4 đến 9/3, quân ta đánh địch trên nhiều địa điểm ở Bắc Tây Nguyên. Ngày 9/3/1975, thế chiến lược bao vây, chia cắt Buôn Ma Thuột đã được quân ta cài xong. Sư đoàn 10 đánh quận lỵ Đức Lập, căn cứ Núi Lửa, cứ điểm 22 của địch. Trước tình hình khẩn cấp, tướng Phạm Văn Phú bay từ Nha Trang lên Buôn Ma Thuột, họp với Tư lệnh Sư đoàn 23 bộ binh, các tiểu khu trưởng Buôn Ma Thuột và Quảng Đức từ 12h đến 17h để đánh giá tình hình. Theo lệnh Phạm Văn Phú, Liên đoàn 2 Biệt động quân của mặt trận Kon Tum được đổ bằng máy bay xuống Buôn Hồ ngay chiều 9/3. Khoảng 18 giờ ngày 9/3, Phạm Văn Phú bay từ Buôn Ma Thuột về thẳng Pleiku trong tâm trạng bồn chồn, lo lắng, hút thuốc lá liên miên. Đến 21h, khi nhận được báo cáo Liên đoàn 21 Biệt động quân tăng cường cho mặt trận Buôn Ma Thuột đã được trực thăng bốc từ Bắc Kon Tum thả xuống Buôn Hồ, Phạm Văn Phú mới thở phào và nói một mình: “May ra thì... còn kịp!”. Từ 1h55 ngày 10/3/1975, quân ta đồng loạt tiến công vào thị xã Buôn Ma Thuột. Đến 11 giờ ngày 11/3, quân ta đánh chiếm Sở Chỉ huy Sư đoàn 23 ngụy, mục tiêu cuối cùng trong thị xã này. Theo lệnh của Tổng thống Thiệu, ngày 12/3, tướng Phú quyết định đổ quân tăng viện tái chiếm Buôn Ma Thuột. 8h sáng, một lực lượng trực thăng khổng lồ gồm 46 chiếc HU1B và Chinook được sử dụng để bốc Trung đoàn 45 bộ binh và bộ phận Sư đoàn 23 từ căn cứ Hàm Rồng sang Buôn Ma Thuột. Bộ đội ta đánh chiếm kho Mai Hắc Đế . Ngày 13/3, cuộc đổ quân của địch sang ngày thứ hai. Toàn bộ các phi đoàn trực thăng ở Đà Nẵng và Cần Thơ với khoảng hơn 100 chiếc đủ loại được đưa vào phục vụ hoạt động này. Ngay đợt đầu ngày của ngày 13/3, Bộ Chỉ huy nhẹ của Sư đoàn 23 bộ binh và Trung đoàn 45 được đổ xuống Phước An. Theo lệnh của Sài Gòn, tòa Hành chánh lưu động Buôn Ma Thuột do Đại tá Trịnh Tiếu-Trưởng phòng nhì Quân đoàn II tình nguyện làm Tỉnh trưởng Buôn Ma Thuột cũng được thả xuống Phước An cùng đoàn quân tăng viện tái chiếm Buôn Ma Thuột. Việc địch tập trung lực lượng tái chiếm Buôn Ma Thuột không nằm ngoài dự kiến của Bộ Tư lệnh Chiến dịch Tây Nguyên và tướng Hoàng Minh Thảo. Từ ngày 12 đến 18/3, quân ta đã đập tan hoàn toàn cuộc phản kích của địch, tiêu diệt toàn bộ Sư đoàn 23-đơn vị được quân đội Sài Gòn suy tôn là “Nam bình, Bắc phạt, Cao nguyên trấn”. Pháo của ta đánh vào thị xã Buôn Ma Thuột . Ở Pleiku, ngày 14/3/1975, tin tức đầu tiên đến với Phạm Văn Phú là Liên đoàn 4 Biệt động quân phòng thủ mặt trận Nam Pleiku đêm hôm trước bị đánh, thiệt hại khá nặng. Từ mờ sáng, phi trường Cù Hanh bị pháo kích. 9h sáng, Phạm Văn Phú nhận được điện từ Văn phòng Tổng thống Thiệu triệu tập khẩn Tư lệnh Quân đoàn II xuống họp tại Cam Ranh. 9h30 phút, Phạm Văn Phú bay trên chiếc C47 từ Pleiku đi Cam Ranh. Cuộc họp tại tòa Bạch Dinh từ 11h32 phút đến 13h29 phút cùng ngày, Phạm Văn Phú được lệnh của Tổng thống Thiệu cho lực lượng quân sự của Quân đoàn II rút bỏ Pleiku và Kon Tum theo đường số 7 để rút về phòng thủ và bảo vệ những tỉnh đông dân cư vùng duyên hải. Đây là mật lệnh mà từ tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng trở xuống không được biết. Có nghĩa là các lực lượng địa phương quân, các cơ sở hành chính của 3 tỉnh Kon Tum, Pleiku, Phú Bổn vẫn tiếp tục làm việc với các tỉnh trưởng, quận trưởng như thường lệ. Trong đêm 14 ngày 15/3, Sư đoàn 6 không quân liên tục vận chuyển số sĩ quan và gia đình họ về Nha Trang. Pleiku hỗn loạn. Sáng Chủ nhật ngày 16/3, binh lính địch mới được lệnh rút khỏi thị xã. Về phía ta, chiều 15/3, cơ quan đại diện Bộ Tổng Tư lệnh tại Mặt trận thông báo cho Bộ Tư lệnh Chiến dịch Tây Nguyên: “Khả năng địch rút chạy khỏi Kon Tum và Pleiku”. 19h ngày 16/3, đồng chí Văn Tiến Dũng chỉ thị cho Bộ Tư lệnh Chiến dịch Tây Nguyên: “Địch đã rút chạy theo đường số 7, tổ chức truy kích ngay”. Đêm 16/3, lực lượng của Sư đoàn 320 đốt nứa khô soi đường, chạy bộ cùng xe cơ giới khẩn trương triển khai địa hình chiến đấu chặn đánh địch trên đường số 7. Ngày 3/4/1975, toàn bộ Tây Nguyên được giải phóng. Với thắng lợi của Chiến dịch Tây Nguyên, cuộc chiến tranh cách mạng miền Nam bước vào giai đoạn phát triển nhảy vọt, để kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước bằng Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Chia sẻ với báo chí, Thượng tướng, Tiến sĩ Lê Huy Vịnh - Thứ trưởng Bộ Quốc phòng nhắc nhớ những ngày tháng lịch sử cuối năm 1974, Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng hạ quyết tâm: Động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta ở cả hai miền Nam Bắc mở cuộc tiến công và nổi dậy giải phóng hoàn toàn miền Nam trong hai năm 1975 - 1976; đồng thời khẳng định, nếu thời cơ đến thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975. Bộ Chính trị thông qua kế hoạch tác chiến chiến lược do Bộ Tổng tham mưu soạn thảo , thống nhất chọn Nam Tây Nguyên là hướng tiến công chủ yếu, bởi đây là địa bàn quan trọng về chiến lược nhưng bố phòng của địch có nhiều sơ hở. Quán triệt nghị quyết Bộ Chính trị đề ra, ngày 9/1/1975, Thường trực Quân ủy Trung ương họp bàn, quyết định mở Chiến dịch Tây Nguyên, lấy Nam Tây Nguyên là hướng tiến công chủ yếu, mục tiêu then chốt mở đầu là thị xã Buôn Ma Thuột. Sau thời gian tích cực triển khai công tác chuẩn bị, tiến hành nghi binh và tác chiến tạo thế, ngày 4/3/1975, Chiến dịch Tây Nguyên chính thức bắt đầu. Bộ đội tiến công trong Chiến dịch Tây Nguyên. Theo Đại tá PGS, TS Hoàng Xuân Nhiên, chiến dịch Tây Nguyên - mở đầu cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, để lại nhiều nét đặc sắc về nghệ thuật quân sự. Trong đó, nghi binh lừa địch tạo lập thế ta - phá thế địch, điều khiển địch theo ý định của ta là nét đặc sắc nổi bật. Để lập thế ta - phá thế địch, tạo thuận lợi cho chiến dịch Tây Nguyên toàn thắng, Bộ Tổng tư lệnh chỉ đạo Quân đoàn 2 và Quân đoàn 4 tăng cường, củng cố thế bố trí trên hai địa bàn chiến lược quan trọng của địch là Huế - Đà Nẵng và đông bắc Sài Gòn, buộc đối phương phải để Sư đoàn lính thủy đánh bộ giữ Sài Gòn và Sư đoàn dù giữ Đà Nẵng. Rõ ràng “Hình thế dàn trận chiến lược kìm địch ở Sài Gòn và Huế - Đà Nẵng cũng là một hành động nghi binh chiến lược cho đòn Tây Nguyên - Buôn Ma Thuột”. Đồng thời, đẩy mạnh các hoạt động tác chiến làm cho địch càng khó phán đoán đâu là hướng chiến lược chủ yếu của ta. Các hoạt động nghi binh chiến lược đó, đã góp phần đánh lừa, buộc địch căng kéo, phân tán chủ lực ra hai đầu Nam - Bắc chiến tuyến. Trong khi đó, ở chiến trường Tây Nguyên, để bảo đảm cho trận then chốt mở đầu chiến dịch, Bộ Tổng tư lệnh và Bộ chỉ huy Mặt trận Tây Nguyên tích cực sử dụng Sư đoàn 3, Trung đoàn 95A, Trung đoàn 25 cùng bộ đội địa phương trên địa bàn đánh cắt giao thông trên các trục đường huyết mạch chia cắt địch ở Tây Nguyên với đồng bằng ven biển và Bắc với Nam Tây Nguyên. Đặc biệt, để tạo thuận lợi cho trận then chốt quyết định tiến công vào Buôn Ma Thuột, Bộ Tư lệnh chiến dịch đã tích cực lừa địch bằng một kế hoạch nghi binh hoàn hảo. Cụ thể: Chỉ huy Sư đoàn 10 sử dụng pháo binh bắn vào Kon Tum, đánh nhỏ quanh thị xã; Sư đoàn 320 đánh nhỏ trên Đường 14, sử dụng pháo binh bắn vào La Sơn, Thanh An; Trung đoàn 95 đánh vào từng tốp xe của địch trên Đường 19; Trung đoàn Đặc công 198 tập kích kho xăng Pleiku... Đồng thời, lực lượng của ta bí mật đưa Sư đoàn 968 từ Nam Lào về Tây Nguyên thay thế vị trí của Sư đoàn 10, Sư đoàn 320; còn hai sư đoàn khi hành quân vào Đắc Lắk đã để lại toàn bộ cụm điện đài và báo vụ viên ở vị trí cũ, hằng ngày vẫn tiếp tục phát đi các bức điện “báo cáo tình hình như thường lệ”. Sư đoàn 968 nghi binh bằng cách tiếp tục duy trì hoạt động như của Sư đoàn 10, Sư đoàn 320 trên các hướng đó. Cùng với hoạt động nghi binh của Sư đoàn 968, từ tháng 9/1974, Bộ Tư lệnh chiến dịch đã sử dụng Trung đoàn công binh 7 kết hợp với dân công các huyện 40, 67, 30, 80, Diên Bình, Tân Cảnh của Kon Tum và các huyện 4, 5 của Gia Lai rầm rộ làm đường giả hướng vào thị xã Kon Tum và Pleiku. Ta giữ được bí mật đến mức người dân trên địa bàn cũng tưởng bộ đội sắp đánh Kon Tum. Các hoạt động đó đã làm cho địch càng phán đoán ta chuẩn bị đánh Kon Tum. Ngay cả khi Bộ Tư lệnh mặt trận giao nhiệm vụ cho Sư đoàn 968 đánh đồn Tầm và quận lỵ Thanh An, đồng chí Thượng tá Thanh Sơn - Tham mưu phó sư đoàn còn hỏi lại “Sư đoàn 968 đánh thật hay là đánh giả”... Sư đoàn 10 và Sư đoàn 320 cùng lực lượng binh chủng bí mật cơ động xuống Nam Tây Nguyên... Để lừa địch, trước khi hành quân chính thức, Sư đoàn 10 đã dành 15 ngày cho các đơn vị di chuyển theo kiểu đèn cù, thay đổi chỗ ở cho nhau nhiều lần. Sau đó cơ động bằng ô tô, một mạch vào Đức Lập. Đến tháng 2/1975, các hoạt động nghi binh “hư hư, thật thật” của ta đã làm cho địch “bán tín, bán nghi”, chúng vẫn chưa phát hiện rõ rệt ý định chiến dịch, chiến lược của ta; thậm chí, đến ngày ta nổ súng, địch vẫn không biết… Có thể nói, các hoạt động nghi binh rầm rộ để điều địch lên hướng Bắc, đồng thời bí mật cơ động lực lượng về hướng nam đã góp phần quan trọng làm địch lầm tưởng ta đang chuẩn bị tiến công vào Kon Tum hoặc Pleiku và “gần như chúng loại trừ khả năng Buôn Ma Thuột bị tiến công khỏi kế hoạch tác chiến trong năm 1975 của Quân khu 2”. Tuy nhiên có lúc địch đã phán đoán ta sẽ đánh Đức Lập, nhất là khi tình báo địch phát hiện Sư đoàn 10 và Sư đoàn 320 đã ăn Tết trước, đang vào Nam Tây Nguyên. Hay khi một chiến sỹ của ta đào ngũ đã khai với địch: “Sư đoàn 10 đang chuẩn bị đánh Đức Lập, Sư đoàn 320 đang ở Ea H’Leo chuẩn bị đánh Thuần Mẫn, một lực lượng khác đang chuẩn bị đánh Buôn Ma Thuột, nhưng tình báo Mỹ lại khẳng định Sư đoàn 10 và 320 vẫn còn ở chỗ cũ”. Ngay lập tức, quân ta cho phát một bức điện gửi các đơn vị với nội dung “địch đã bị mắc lừa, cho rằng ta sẽ đánh Buôn Ma Thuột nên đã điều quân xuống phía Nam” … Những thông tin có nội dung trái ngược nhau làm cho tướng Phạm Văn Phú hoang mang, không biết nên tin lời khai của tên đào ngũ, hay tin vào nguồn tin kỹ thuật vô tuyến điện do chúng thu được... Không chỉ có vậy, nghệ thuật nghi binh, điều địch của ta thành công đến mức khi chiến dịch tiến công Tây Nguyên đã bắt đầu, mà đến ngày 6/3, Bộ Tổng Tham mưu quân đội Sài Gòn và CIA vẫn khẳng định: “Hướng đối phó chính vẫn là Pleiku và Kon Tum. Chúng cho rằng hành động cắt Đường số 19, 14 và 21 chỉ là hoạt động phối hợp của ta”. Thậm chí, khi ta nổ súng tiến công quận lỵ Thuần Mẫn và đánh quận lỵ Đức Lập tức là thời điểm Buôn Ma Thuột đã bị phơi ra trước mũi súng của bộ đội ta mà tướng Phạm Văn Phú vẫn không đoán biết được ý đồ của ta. Chỉ đến 4h sáng ngày 10/3/1975, khi xe tăng của ta đã tiến vào Buôn Ma Thuột, tướng Phạm Văn Phú mới biết Buôn Ma Thuột là mục tiêu chính của ta, thì đã quá muộn. Quân ta tấn công sở chỉ huy Sư bộ 23 Quân đội Việt Nam cộng hòa tại Buôn Ma Thuột Trong Chiến dịch Tây Nguyên Xuân 1975, ta đã tiến hành cả một giai đoạn nghi binh tạo thế đầy sáng tạo, theo một kế hoạch công phu, bài bản: Từ đánh giả như thật, tung tin thất thiệt, tổ chức mít tinh hoan nghênh bộ đội về giải phóng Kon Tum - Pleiku đến việc tạo những sơ hở giả, tiến hành công tác thiết bị chiến trường và điều động lực lượng úp úp mở mở… khiến cho địch ngày càng tin chắc là ta tiến công Bắc Tây Nguyên, góp phần quan trọng cho trận then chốt mở đầu thắng lợi. Những nét đặc sắc về nghệ thuật nghi binh tạo thế trên đã cho ta nhận thức một cách đầy đủ hơn: Nghi binh và tạo thế là hai lĩnh vực riêng biệt, nhưng có mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau. Nghi binh là hoạt động giả được tiến hành như thật để lừa địch; Tạo thế là hoạt động thật được tiến hành như giả nhằm làm suy yếu kẻ thù. Mục đích của nghi binh và tạo thế đều nhằm tạo ra điều kiện thuận lợi cho ta cơ động và bố trí lực lượng, cũng như có được ưu thế hơn địch... Vì vậy, trong hoạt động nghi binh và chiến đấu tạo thế, rất cần có sự kết hợp chặt chẽ, làm cho địch khó phân biệt đâu là thật, đâu là giả; tạo thời cơ có lợi cho các hoạt động tác chiến của ta. Video: Kế hoạch nghi binh trong chiến dịch Tây Nguyên Hàng loạt các mưu mẹo chiến lược Ngoài chiến thuật nghi binh, trong trận Buôn Ma Thuột , Quân Giải Phóng miền Nam Việt Nam đã tấn công bất ngờ vào các vị trí quan trọng của quân đội Việt Nam Cộng hòa tại Buôn Ma Thuột. Các lực lượng của Quân Giải Phóng đã tổ chức các cuộc tấn công đồng loạt vào các mục tiêu như căn cứ quân sự, sân bay và các điểm phòng thủ của địch, khiến chúng không kịp chuẩn bị và phản ứng. Điều này làm cho quân đội Việt Nam Cộng hòa không thể kịp triển khai lực lượng để đối phó hiệu quả với các cuộc tấn công từ nhiều hướng. Chiến thuật tạo áp lực liên tục và không cho đối phương thời gian phản ứng cũng được Quân giải phóng áp dụng nhuần nhuyễn. Sau khi tấn công vào Buôn Ma Thuột, Quân Giải Phóng tiếp tục duy trì áp lực liên tục, không cho quân đội Việt Nam Cộng hòa có thời gian tái tổ chức phòng thủ. Các đơn vị bộ binh và xe tăng của Quân Giải Phóng luôn di chuyển nhanh chóng, phối hợp chặt chẽ và tấn công vào các vị trí yếu của đối phương. Điều này khiến quân đội Việt Nam Cộng hòa không thể tổ chức phòng thủ hiệu quả, khiến họ rơi vào tình trạng bị động và hoang mang. Quân Giải Phóng cũng đã áp dụng chiến thuật vây hãm rất hiệu quả đối với các lực lượng quân của địch. Những đơn vị Quân Giải Phóng tấn công mạnh mẽ và chiếm các điểm then chốt, đồng thời cắt đứt các tuyến đường tiếp tế và rút lui của quân Sài Gòn. Khi quân địch bị vây hãm và cắt đứt liên lạc, họ không thể tổ chức phòng thủ hoặc phản công, tạo cơ hội cho Quân Giải Phóng tiếp tục tấn công và chiếm giữ các vị trí quan trọng. Những hình ảnh hào hùng của Quân Giải phóng khi tiến đánh vào thị xã Buôn Ma Thuột. Ngoài ra, Quân Giải Phóng cũng áp dụng chiến thuật "đánh nhanh, thắng nhanh", triển khai các đơn vị cơ động, nhanh chóng tiếp cận các mục tiêu quan trọng, đồng thời tận dụng các đơn vị đặc công và bộ đội đột kích để phá hủy các cơ sở vật chất, gây rối loạn và làm suy yếu khả năng phòng thủ của quân địch. Đặc biệt, việc chiếm được sân bay Buôn Ma Thuột và các tuyến đường huyết mạch đã làm suy yếu nghiêm trọng khả năng phản công và tổ chức lại của chúng. Quân Giải Phóng đã phối hợp tác chiến chặt chẽ giữa bộ binh, xe tăng, pháo binh và không quân. Lực lượng bộ binh mở đường, xe tăng và pháo binh chi viện hỏa lực, trong khi không quân hỗ trợ việc cắt đứt đường tiếp tế và gây áp lực lên các vị trí phòng thủ của đối phương. Các cuộc tấn công kết hợp này khiến quân địch không thể phản ứng kịp thời, đồng thời làm suy yếu tinh thần chiến đấu của các đơn vị của chúng. Quân Giải Phóng cũng rất chú trọng đến chiến lược tâm lý chiến, tạo ra áp lực tâm lý mạnh mẽ đối với quân đội Việt Nam Cộng hòa. Các chiến dịch tuyên truyền, cùng với sự bất ngờ trong các đợt tấn công, khiến quân địch hoang mang và suy giảm ý chí chiến đấu. Các chiến thắng liên tiếp của Quân Giải Phóng, đặc biệt là việc chiếm Buôn Ma Thuột, đã làm cho quân địch cảm thấy không còn hy vọng chiến thắng, dẫn đến sự hoảng loạn và rút lui. Hồi tưởng lại trận đánh mở màn thắng lợi cho Chiến dịch Tây Nguyên Trung tướng, Tiến sĩ, Anh hùng lực lượng vũ trang Đoàn Sinh Hưởng, nguyên Tư lệnh Binh chủng Tăng Thiết giáp; nguyên Tư lệnh Quân khu 4 chia sẻ: “Trong cuộc đời quân ngũ, trận đánh để lại trong ông suy ngẫm về nghệ thuật sử dụng tăng thiết giáp trong thực hành chiến đấu nhiều nhất là tiến công thị xã Buôn Ma Thuột, trận then chốt thứ nhất trong chiến dịch Tây Nguyên”. Theo lời kể của Trung tướng Đoàn Sinh Hưởng, ngày 17/1/1975, Trung đoàn Tăng - Thiết giáp 273 của ông được lệnh hành quân di chuyển đội hình xuống phía nam Tây Nguyên. Đại đội 9 của ông trong đội hình Trung đoàn bí mật vượt qua 300 km an toàn đến vị trí tập kết ở Buôn Gia Vầm, cách Buôn Ma Thuột 40km về phía bắc, sẵn sàng tiến công giải phóng mục tiêu then chốt quyết định là Buôn Ma Thuột. 5h30’ ngày 10/3/1975, xe tăng và cơ giới quân đội ta mở tốc lực tiến thẳng vào thị xã Buôn Ma Thuột. Công tác chuẩn bị hết sức công phu, cả về kỹ thuật và chiến thuật. Đại đội 9 được trang bị toàn bộ xe tăng T-54B thế hệ mới, Trung tướng Hưởng cùng đồng đội tổ chức cho từng kíp xe tăng luyện tập kỹ và quyết tâm bảo đảm tác chiến nhanh, chính xác. Lực lượng kỹ thuật tổ chức sấy máy bằng than củi, sấy máy bằng thủ công bảo đảm thông tin được thông suốt. “Trong quá trình chuẩn bị tại vị trí tập kết, tôi có sáng kiến: Mỗi xe tăng cố định thêm 10 viên đạn pháo và mỗi xe thiết giáp K-63 chở thêm 10 viên; nâng cơ số đạn chiến đấu của xe tăng từ 34 viên lên 54 viên, bảo đảm chiến đấu được thời gian dài và bắn không hạn chế . Sáng kiến gia cố thêm đạn này về sau được toàn Trung đoàn 273 áp dụng trong Chiến dịch Hồ Chí Minh”, Trung tướng Đoàn Sinh Hưởng kể lại. Ngoài việc gia cố đạn, Trung tướng Hưởng còn đề nghị trên tăng cường cho mỗi xe tăng một thùng , riêng xe của ông được ưu tiên hai thùng. “Số lựu đạn này tôi chỉ huy sử dụng hết trong buổi sáng ngày 10/3, để tiêu diệt địch khi chúng bu bám đội hình xe tăng. Một sự kiện đáng nhớ nữa là khi xuất phát tiến công, với kinh nghiệm cơ động xe tăng trong chiến đấu, tôi đề nghị trên cho xuất phát trước lệnh của Bộ Tư lệnh chiến dịch 15 phút (theo hiệp đồng là 2.00 sáng ngày 10 tháng 3, nhưng chúng tôi xuất phát lúc 2 giờ kém 15 phút”, ông Hưởng nhớ lại. Trung tướng, Anh hùng LLVTND Đoàn Sinh Hưởng là Dũng sĩ diệt Mỹ tuổi 18 bằng kế dùng xe tăng địch để đánh địch. Cuộc tiến công vào mục tiêu then chốt Buôn Ma Thuột bắt đầu, khi pháo binh, đặc công tiến công sân bay thị xã, khu kho Mai Hắc Đế và sân bay Hòa Bình, thì Đại đội 9 mũi đột kích thọc sâu do ông chỉ huy gồm 10 xe tăng T-54B và 10 xe K-63, được tổ chức thành 4 thê đội. Mỗi thê đội chở 20 cán bộ, chiến sĩ bộ binh trên xe K-63 để tiếp cận cửa mở. Ông Hưởng trực tiếp chỉ huy thê đội 2 và chỉ huy chung cả 4 thê đội chiếm lĩnh vị trí xuất phát, mọi yếu tố bí mật vẫn giữ đến phút chót, địch không hề biết “voi thép” đang lao về phía chúng. Theo lời kể của Trung tướng Hưởng, 5h30’ ngày 10/3/1975, khi pháo binh chuyển làn bắn, xe tăng và cơ giới ta mở tốc lực, húc đổ cây tiến thẳng vào thị xã Buôn Ma Thuột. Nhận thấy địch hoang mang cực độ, ông Hưởng lệnh bật đèn xe. Đại đội 9 làm theo, các đơn vị khác cũng bật đèn, biến núi rừng Tây Nguyên thành biển lửa, khích lệ quân ta, khiến địch khiếp đảm. Ngày 10/3/1975, Xe tăng 980 của Đại đội Tăng 9 – Trung đoàn Tăng 273 – Quân đoàn 3 do Thiếu úy Đoàn Sinh Hưởng – Đại đội trưởng chỉ huy thọc sâu đánh chiếm Sư bộ 23 Ngụy, đánh chiếm Ngã 5, Ngã 6 và giải phóng thị xã Buôn Ma Thuột. Theo kế hoạch chiến đấu, thê đội 1 dẫn đầu đột phá vào cửa mở, để thê đội 2 do ông Hưởng chỉ huy thọc sâu vào Sở chỉ huy Sư đoàn 23 của địch. Bị dồn vào chân tường, địch chống cự quyết liệt, khiến bộ đội ta thương vong khá nhiều. "Hầu hết xe tăng của chúng tôi đều có người bị thương, xe tăng 980 do tôi chỉ huy bị trúng đạn. Trong giây phút đó, người lái xe bị gãy tay, tôi cho xe lùi lại, đưa đồng chí lái xe ra tuyến sau cấp cứu và điều người khác từ xe 703 lên thay. Từ 5h30’ đến 10h30’ ngày 10/3, chúng tôi quần nhau với địch", Trung tướng Hưởng kể lại. Trung tướng Đoàn Sinh Hưởng và cán bộ, chiến sĩ Lữ đoàn Tăng thiết giáp 206 . Pháo phòng không 232 và 234 bảo vệ chặt đội hình tiến công. Tối 10/3, Đại đội 9 và bộ binh áp sát Sư đoàn bộ Sư đoàn 23 của địch. Theo lệnh, đơn vị dừng củng cố, bổ sung đạn. Ông Hưởng cùng đồng đội trinh sát, chuẩn bị đánh sớm hôm sau. 6h ngày 11/3, khi đơn vị sẵn sàng xuất kích, phát hiện xe địch, ông Hưởng lệnh nổ súng, bắn cháy 2 xe M-113 và M-41. Lợi dụng địch hoảng loạn, ông chỉ huy truy đuổi, bắt Tỉnh phó Đắk Lắk. Xe tăng ta tiếp tục đánh chiếm Sở Chỉ huy Sư đoàn 23, sào huyệt cuối cùng ở Buôn Ma Thuột. Đến 10h, các hướng đồng loạt tấn công. 10h30’, xe tăng, bộ binh áp sát cột cờ, Đại đội 9 chốt giữ trận địa, hỗ trợ Tiểu đoàn 4 hạ cờ Sài Gòn, kéo cờ giải phóng trong niềm vui chiến thắng. Kể đến đây, ông Hưởng nghẹn ngào: ”Chiến tranh đã lùi xa, đồng đội thế hệ tôi người còn, người mất. Trên chính mảnh đất Tây Nguyên hùng vĩ này, biết bao đồng đội tôi đã không may nằm lại, linh hồn và thân thể các anh đã hòa vào đất đỏ Tây Nguyên để cây trái đơm hoa, xóm làng trù phú. Họ đã ngã xuống để đất nước ta ngày càng tươi đẹp, trường sinh". Video: Toàn cảnh chiến dịch Tây Nguyên Quyết chiến điểm Buôn Ma Thuột Nửa thế kỷ đã trôi qua, những người lính từng tham gia trận đánh Buôn Ma Thuột năm xưa nay tóc đã bạc. Thế nhưng, mỗi khi nhắc đến trận chiến lịch sử ấy, lòng họ vẫn bừng lên niềm tự hào. Những ký ức về cuộc chiến hào hùng vẫn in đậm trong tâm trí các nhân chứng lịch sử. Lật giở từng trang ký ức, ông Tô Tấn Tài , nguyên Phó Bí thư thường trực Tỉnh ủy Đắk Lắk từ năm 1987-1997 đã kể cho chúng tôi nghe câu chuyện về những ngày lịch sử cách đây 50 năm. Ông Tô Tấn Tài, nguyên Phó Bí thư thường trực Tỉnh ủy Đắk Lắk. Nhìn về phía xa xăm, ông Tài hồi tưởng: “Cuối năm 1974, Bộ Chính trị đã tổ chức hai cuộc họp dài ngày để đánh giá tình hình chiến trường miền Nam. Sau khi đánh giá Mỹ không có khả năng trở lại và thời cơ đến sớm Bộ Chính trị quyết định huy động toàn lực trên cả nước, quyết tâm đánh bại địch, giải phóng miền Nam. Đồng thời, Trung ương quyết định chọn chiến trường Tây Nguyên là chiến trường chính trong năm 1975, trong đó Buôn Ma Thuột được chọn làm địa điểm để mở chiến dịch”. Việc chọn Buôn Ma Thuột làm mục tiêu quyết chiến trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 có ý nghĩa chiến lược hết sức quan trọng. Buôn Ma Thuột nằm trên trục đường 14, 21 thuận lợi cho việc phát triển chiến đấu ra các tỉnh Tây Nguyên, xuống duyên hải miền Trung và vào Nam Bộ. Hơn nữa, đây cũng là nơi có vị trí chiến lược quan trọng ở Nam Tây Nguyên nhưng lại tương đối cô lập xa các trung tâm quân sự lớn, hạn chế sự chi viện lớn của địch. Hơn thế nữa, Buôn Ma Thuột và vùng phụ cận có địa thế rất thuận lợi cho tác chiến hợp đồng binh chủng, nhưng ta chưa dùng chủ lực lớn đánh vào Thị xã nên địch bố trí binh lực ở đây có sơ hở hơn so với Pleiku và Kon Tum. Do đó, một trận đánh lớn ở Buôn Ma Thuột sẽ tạo sự rung động mạnh về chiến lược, làm đảo lộn thế phòng thủ của địch ở Tây Nguyên, uy hiếp đồng bằng ven biển miền Trung, mở ra hướng tiến công quan trọng vào Sài Gòn". Cũng theo lời kể của nguyên Phó Bí thư thường trực Tỉnh ủy Đắk Lắk, tháng 2/1975, đồng chí Bùi Sang , Phó Bí thư liên Khu ủy khu 5 dẫn một đoàn công tác vào làm việc với Thường vụ Tỉnh uỷ Đắk Lắk để hạ quyết tâm phải tấn công toàn diện trong toàn miền. Trong đó, đoàn công tác nhấn mạnh, tỉnh Đắk Lắk phải thực hiện được 2 mũi giáp công là phát động quần chúng nổi dậy và dùng quần chúng, các lực lượng để vận động binh lính địch ra trình diện. Trong đó, đoàn công tác nhấn mạnh, tỉnh Đắk Lắk phải thực hiện được 2 mũi giáp công là phát động quần chúng nổi dậy và dùng quần chúng, các lực lượng để vận động binh lính địch ra trình diện. Tiếp nhận chủ trương, Thường vụ Tỉnh ủy Đắk Lắk giao cho ông Tô Tấn Tài, lúc bấy giờ là Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy, Bí thư Thị ủy Buôn Ma Thuột trực tiếp phụ trách Đội Công tác Chính trị, lên phương án phát động quần chúng trong nội thị. Đồng thời, đưa lực lượng vào phát động quần chúng để khi bộ đội đánh tới đâu thì có quần chúng ủng hộ tới đó. Nhận nhiệm vụ, ông Tài đã khẩn trương xây dựng phương án bí mật phát động quần chúng nổi dậy tùy theo khả năng của từng tầng lớp nhân dân nhằm giảm thiểu tổn hại xương máu. Sau một thời gian ngắn, ông đã tập hợp được 120 người tham gia Đội Công tác Chính trị do mình làm chỉ huy. Mũi tiến quân và pháo của quân giải phóng đánh vào thị xã Buôn Ma Thuột . Để từng bước tiếp cận, tiến vào nội thị, Đội được chia ra làm nhiều trung đội, có phân công nhiệm vụ cụ thể. “Lúc đó, chúng tôi chọn những phường trong Buôn Ma Thuột có nhân dân lao động đông nhất và được giác ngộ cách mạng nhiều nhất là phường Thành Công và phường Tân Tiến làm hai trọng điểm ở nội thị”, ông Tài nhớ lại. Theo kế hoạch, sau khi lực lượng Đội Công tác Chính trị vào được nội thị thì phải nhập cho được vào hai phường này để phát triển ra. Với các chị em phụ nữ sau khi vào được nội thị thì đến bất kỳ nhà nào, thuyết phục dân cho mượn quần áo để thay nhằm trà trộn vào trong dân. Đối với quần chúng trong nội thị, chú ý vào tầng lớp nhân dân lao động và lực lượng công nhân ở các sở cung cấp điện, nước và vận tải, thậm chí thâm nhập vào các chùa, nhà thờ... để làm công tác mặt trận, vận động người dân ủng hộ lực lượng của ta. Khi mọi khâu chuẩn bị đã sẵn sàng, Đội Công tác Chính trị do ông Tài làm chỉ huy đã mật phục ngoài rừng, đợi lệnh nổ súng trong nội thị thì lập tức tiến vào. Đêm trước ngày 10/3/1975, đơn vị của ông Đỗ Văn Đỗ nhận được lệnh bí mật hành quân về hướng Tây Bắc Buôn Ma Thuột, bảo vệ cho bộ binh và xe tăng tiến đánh sân bay L19 của địch. Đồng thời, sẵn sàng cùng với các lực lượng đánh thẳng vào ngã 6 Buôn Ma Thuột, Sư bộ 23 Quân lực Việt Nam cộng hòa và kho Mai Hắc Đế. Lúc đó, xe tăng đi trước, pháo cao xạ đi sau để bảo vệ xe tăng. Khoảng 2h sáng 10/3/1975, Bộ Tư lệnh Chiến dịch Tây Nguyên phát lệnh nổ súng tấn công vào thị xã Buôn Ma Thuột. Bộ đội đặc công đánh vào sân bay thị xã, Tổng kho Mai Hắc Đế, sân bay Hòa Bình. Hỏa tiễn H12 và các cụm pháo tập trung bắn vào Sư bộ 23 của địch. Trong trận chiến khốc liệt năm đó, nhiều đồng đội của ông Đỗ đã ngã xuống. Ông xúc động nhớ lại: “Khoảng 9h45 ngày 10/3, máy bay địch bất ngờ ném bom xuống trận địa pháo của chúng tôi tại căn cứ địa phía Bắc thị xã Buôn Ma Thuột , khiến cả 6 chiến sĩ thuộc Khẩu đội pháo 23 mm hy sinh tại chỗ. Khi quân ta tiến đánh sân bay L19, có một chiến sĩ bị trúng một mảnh đạn vào ngực trái và cũng hy sinh sau đó do mất máu quá nhiều”. Biến đau thương thành sức mạnh, sau hơn 30 giờ đồng hồ chiến đấu quyết liệt, Quân Giải phóng đã hoàn toàn làm chủ thị xã Buôn Ma Thuột. Ông Đỗ Văn Đỗ, nguyên Trợ lý trinh sát Tiểu đoàn 3 nhớ lại giây phút quân ta làm chủ thị xã Buôn Ma Thuột. Ở ngoài rừng, Đội Công tác Chính trị do ông Tô Tấn Tài làm chỉ huy cũng bám theo bộ đội chủ lực Trung đoàn 148 của Sư đoàn 316 ngay trong đêm. Khi đến gần tới vùng Ea Nuôl , trời bắt đầu sáng, máy bay của quân địch bay khắp bầu trời nhưng lực lượng của ta vẫn men theo đường xe khai thác gỗ tiến vào nội thị. Đến trưa 11/3/1975, lực lượng của ta đã đánh sập đầu não của Sư bộ 23 của địch, giải phóng thị xã Buôn Ma Thuột. Chiều 11/3, khoảng 20 người của Đội Công tác Chính trị xin đi cùng Ban chỉ huy Trung đoàn 148, thuộc Sư đoàn 316 để tiền trạm. Nếu vô lọt nội thị thì một số người trở ra để dẫn đường cho lực lượng còn lại vào. Đêm 11/3, 20 người của Đội Công tác Chính trị vào tới khu vực chùa Khải Đoan . Sau đó, ông Tài đã dẫn đường cho đoàn cán bộ chính trị còn lại đi theo con đường ô tô để vô nội thị. Ngay sau khi vào thị xã, Đội Công an Chính trị đã phát huy tác dụng, hơn 100 người tỏa ra các nhà cơ sở, nhà đảng viên trung kiên, quần chúng tốt để tiếp xúc với nhân dân, giải thích cho họ kỳ này quyết giải phóng, đồng thời làm chủ luôn thị xã Buôn Ma thuột và tỉnh Đắk Lắk. Đội cũng kêu gọi một số thanh niên trong nội thị đi đến các trường học vận động hàng nghìn học sinh tham gia đi vận động binh lính địch trở về, đồng thời bảo vệ các công sở mà địch bỏ chạy và quân ta đã đánh chiếm. Cứ như thế, bộ đội đánh chiếm chỗ nào thì lực lượng của ta tổ chức chiếm lĩnh, quản lý đến đó. Từ ngày 12/3/1975 trở đi, lực lượng của Đội Công tác Chính trị thay nhau ghi chép danh sách quân đội Việt Nam Cộng hoà ra trình diện mà không kể ngày đêm. Toàn cảnh chiến dịch Tây Nguyên “Có một kỷ niệm mà tôi nhớ mãi đó là khi hai bên đánh nhau, pháo ta và pháo địch nổ làm vỡ đường ống dẫn nước của nhà máy nước, đứt dây diện khiến cho toàn thị xã mất nước, mất điện nhiều ngày. Sau đó, có 3 công nhân của công ty cấp thoát nước tìm đến Sở chỉ huy của Đội Công tác Chính trị đề nghị tôi cho một số đồng chí bộ đội đi bảo vệ để họ khôi phục lại các vị trí ống nước bị vỡ. Ngay lập tức, tôi đã cử một tổ đi bảo vệ để họ đi khôi phục lại nước sau 3 ngày vỡ ống. Đến ngày 15/3/1975, đã khôi phục được điện trên toàn thị xã Buôn Ma Thuột” - ông Tài cho biết. Trong trận đánh Buôn Ma Thuột, ông Lê Chí Quyết khi ấy đang công tác tại Tỉnh đội Đắk Lắk. Ngay sau khi nhận được mật lệnh tấn công giải phóng Buôn Ma Thuột, ông được giao nhiệm vụ Phó Chủ tịch Thường trực, kiêm Bí thư Đảng ủy thị xã, phụ trách công tác quản lý và điều hành mọi hoạt động của thị xã bằng các biện pháp quân sự. Ông Lê Chí Quyết, nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban Quân quản tỉnh Đắk Lắk, nguyên Phó Bí thư Tỉnh ủy Đắk Lắk. Ông Quyết cho hay, khi đó, quân địch bị ta đánh tan tác nên đã ẩn náu khắp nơi, thực hiện nhiều vụ cướp táo tợn nhằm trốn thoát. Lúc này, bộ đội ta nhanh chóng triển khai lực lượng truy bắt, đồng thời vận động quần chúng nhân dân kêu gọi các ngụy quân ra trình diện. Với tinh thần trách nhiệm cao, Ủy ban Quân quản đã giữ vững được trật tự an ninh tại thị xã, bảo vệ an toàn tính mạng của nhân dân. Đòn phủ đầu chính quyền Việt Nam Cộng Hòa Theo Đại tá, PGS, TS. Nguyễn Văn Sáu, Phó Viện trưởng Viện Lịch sử quân sự, nửa thế kỷ đã đi qua, nhưng Chiến thắng Buôn Ma Thuột vẫn mãi là chiến công quan trọng trong Chiến dịch Tây Nguyên nói riêng và trong Đại thắng mùa Xuân 1975 nói chung. Chiến thắng Buôn Ma Thuật là đòn phủ đầu đối với chính quyền và quân đội Việt Nam Cộng hòa và mở ra thời cơ chiến lược cho những thắng lợi cuối cùng trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Thắng lợi của trận đột phá Buôn Ma Thuột và trận đánh thắng cuộc phản kích của Sư đoàn 23 đã đẩy quân đội và chính quyền Việt Nam Cộng hòa hoang mang tột độ. Trận then chốt mở đầu tiến công vào Buôn Ma Thuột đã mang ý nghĩa và tầm vóc chiến lược, đẩy địch mắc sai lầm về chiến lược: Được minh chứng bằng Chỉ thị ngày 14/3/1975 của Tổng thống - Tổng Tư lệnh quân đội Việt Nam Cộng hoà Nguyễn Văn Thiệu rằng: “Quân viện bị cúp, thiếu đạn và tiền, địch đánh mạnh hơn năm 1968, 1972; Kon Tum, Pleiku người ít, kinh tế không có, rút quân về cứu Buôn Ma Thuột và giữ vùng duyên hải”. “Như vậy, chiến thắng Buôn Ma Thuột cùng với thắng lợi ở Thuần Mẫn và Đức Lập... đã làm đảo lộn thế bố trí phòng ngự của địch ở Tây Nguyên, buộc quân đội Việt Nam Cộng hoà phải rút bỏ Tây Nguyên - Đây là căn nguyên dẫn đến hàng loạt sai lầm như “hiệu ứng đôminô” tạo điều kiện cho ta tiến công như thế chẻ tre, tạo thế và lực và bước nhảy vọt về chất của cách mạng miền Nam “một ngày bằng hai mươi năm” - Điều ấy, càng khẳng định đòn tiến công thị xã Buôn Ma Thuột ở chiến trường Tây Nguyên thực sự là “đòn phủ đầu” đối chế độ Việt Nam Cộng hòa và tác động dây chuyền đến “quan thầy” của chế độ tay sai, phản động ở Oasinhtơn - nước Mỹ bên Tây bán cầu”, Đại tá Nguyễn Văn Sáu khẳng định. Chiến thắng Buôn Ma Thuột đã giáng một đòn chí mạng vào quân địch, buộc chúng phải rút bỏ Tây Nguyên trong hỗn loạn. Báo Le Mon số ra ngày 21 tháng 3 năm 1975 viết: “Trong vài ngày, bản đồ quân sự miền Nam bị đảo lộn. Chỉ có trận Buôn Ma Thuột mà khiến cho từng mảng lớn do chế độ Thiệu dựng nên đã bị sụp đổ. Hoá ra Buôn Ma Thuột mang cái đà của một bước ngoặt trong cuộc xung đột đến nay đã được 30 năm”[2]. Tờ Kinh tế , Số ra ngày 23/3/1975 viết: “Mất Buôn Ma Thuột là Thiệu không tài nào giữ nổi Tây Nguyên”. Theo nhà sử học Mỹ George C. Herring, thất bại ở Tây Nguyên đã “phơi bày sự yếu kém về tinh thần” của quân đội Sài Gòn. Nhiều đơn vị tự giải tán hoặc đầu hàng mà không chiến đấu. Trong cuốn "A Better War", tác giả Lewis Sorley thừa nhận, Mỹ đã không hiểu hết sức mạnh tổng hợp của đối phương: Sự ủng hộ của dân chúng, chiến tranh du kích, và khả năng tiếp tế qua đường Trường Sơn. Trong hồi ký, Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger đã viết những lời cay đắng rằng: "Sự sụp đổ ở Tây Nguyên là dấu chấm hết cho bất kỳ hy vọng nào về sự tồn tại của Việt Nam Cộng hòa”. Có thể nói, Chiến dịch Tây Nguyên là một đòn đánh chiến lược, điểm đúng tử huyệt, vị trí yếu nhất và nhạy cảm nhất của quân đội Việt Nam Cộng hoà. Thượng tướng, Tiến sĩ Lê Huy Vịnh - Thứ trưởng Bộ Quốc phòng khẳng định Chiến thắng Tây Nguyên biểu hiện sức mạnh Chủ nghĩa Anh hùng cách mạng, nghệ thuật quân sự, khẳng định sức mạnh Đại đoàn kết toàn dân và khát vọng hòa bình, thống nhất Tổ quốc của Nhân dân trên cả hai miền Nam, Bắc. 〈、Tổng quan、〈、Cuộc đấu trí căng thẳng giữa tướng lĩnh 2 bên 〈、Kế hoạch nghi binh hoàn hảo khiến quân địch đánh mất Buôn Ma Thuột 〈、'Voi thép' xuất trận và nỗi kinh hoàng của quân địch 〈、Đòn phủ đầu sấm sét làm lung lay ý chí Quân lực Việt Nam Cộng hòa Tổng quan、〉、Cuộc đấu trí căng thẳng giữa tướng lĩnh 2 bên 〉、Kế hoạch nghi binh hoàn hảo khiến quân địch đánh mất Buôn Ma Thuột 〉、'Voi thép' xuất trận và nỗi kinh hoàng của quân địch 〉、Đòn phủ đầu sấm sét làm lung lay ý chí Quân lực Việt Nam Cộng hòa 〉Vì sao chọn Tây Nguyên?
Cú ra đòn sấm sét
Kế hoạch nghi binh hoàn hảo
Sơ đồ trận đánh Buôn Mê Thuột
Đánh địch bằng cả lòng dân
Giải phóng Buôn Ma Thuột.